Bài này mình lượm được ở nhà của bác bọ Lập, của tác giả Hoàng Lê tựa là: Văn tế sống một đồng nghiệp sắp về
vườn, xin mời các bác thưởng thức:
Hỡi ôi!
Thông báo đã về,
Làm ta sửng sốt!
Cả một đời bám ngành giáo học khi nổi
khi chìm lắm lúc ô danh,
Mười mấy năm đăng nhiệm cán bộ phòng
tiếng vang như mõ.
Nhớ năm xưa!
Thân phận thảo dân;
Gia đình nghèo khó;
Chưa quen sếp nọ, đâu biết mánh
mung;
Chỉ biết mở “cua”, trường này, trường
nọ…
Giáo án, bảng đen, phấn trắng tay vốn
quen làm;
Diễn thuyết, rượu bia, khách sạn, xe
hơi mắt chưa từng ngó.
Bả danh vọng đẩy lùi nhân cách, muốn
lên quan như trời hạn mong mưa;
Mùi đại gia ngứa ngáy đã bao năm,
ghét đứng lớp như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy cô em tiểu học nhảy tót trưởng
phòng, tức muốn sôi gan;
Mở truyền hình tỉnh, nhìn đứa bạn
lên giám đốc uất toan vỡ mật.
Một tấm thân gái ngọc ngà, há để
không cũng phí đời hoa;
“Mấy lạng” vốn trời cho, đâu dễ khiến
các đàn anh trơ như gỗ đá.
Chẳng đợi ai đòi ai bắt, từ nay em sẽ
quyết hiến mình
Không thèm “tiên học lễ hậu học
văn”, phen này ắt sẽ thăng quan tiến chức.
Khá thương thay!
Vốn không phải anh hoa phát tiết,
theo dòng học tập chỉn chu;
Chẳng qua là dân 10+3, sốt sắng làm quan nên cố.
Đạo đức nhà giáo theo truyền thống
nào đợi luyện rèn;
Quy chế chuyên môn hiện hành đâu cần
phải nhớ.
Bề ngoài, cậy mình có gương mặt “yêu
tinh” nào đợi ai xem đức, xem tài;
Bên trong, vốn tự có trình ra, đâu cần
hội đồng kia giới thiệu.
Bằng sư phạm nhếch nhác nghiễm nhiên
là giám khảo hội giảng nọ, trưởng ban thi đua kia;
Chưa một ngày làm quản lý nhà trường
vẫn lên giọng ta đây, vênh mặt vung tay chém gió.
Chẳng sợ Ban nọ, Sở kia gióng trống,
phất cờ, mở đợt thi đua, coi “tấm gương”, “đạo đức” có cũng như không;
Nào sợ chị em cùng giới cười cợt,
khinh khi, cứ “xô cửa xông vào”, goodbye liêm sỉ.
Lúc dự giờ, khi sáng kiến, làm cho
giáo giới hồn kinh;
Tay thi đua, tay phần thưởng, thậm
thụt phong bì bợ đỡ.
Ôi!
Những mong thanh thế lẫy lừng;
Đâu biết hư danh vội bỏ.
Một góc căn phòng thờ chữ “nhẫn”,
ngày ngày đọc báo, buôn dưa;
Năm nhăm, hưu trí ấy chữ quy, cái
loa cũng đến ngày câm lặng.
Đoái trông cửa huyện, đám con nuôi
thớ lợ võ vàng mặt ủ mày ê;
Nhìn lại cố hương, đấng lang quân đầu
cắm đầy sừng hai hàng lệ nhỏ.
Chẳng phải án kỷ luật thải hồi đến nỗi
bị mất chức cho cam tâm;
Vốn chỉ là háo lợi háo danh, đến lúc
gặp vận đen cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Cũng là nghiệp gõ đầu trẻ làm kế
sinh nhai, thời buổi học trò ngồi nhầm chỗ;
Thế nên thầy chẳng ra thầy, đem cái
ngàn vàng, dâng cho sếp đổi lấy chức quyền.
Vì ai khiến bao phen muối mặt, những
phường “mèo mả gà đồng”;
Vì ai xui cười nói nổ trời, rặt lũ
“mạt cưa mướp đắng”.
Ở lại làm chi, “xanh vỏ đỏ lòng”,
ngày ngày trông thấy họ lại thêm buồn;
Ham hố làm chi, “thói đời lạnh nhạt”,
tháng tháng vài đồng lương cũng khổ.
Thà nghỉ quách mà an toàn “hạ cánh”,
cùng chồng vui hưởng tuổi già;
Còn hơn là “cố đấm ăn xôi” sẽ đến
ngày đeo mo vào mặt.
Ôi thôi thôi!
Phòng giáo dục, cửa nay đóng chặt,
oan Thị Màu đành gửi lại bóng trăng rằm;
Cổng huyện đường, chân mỏi gối chồn,
tủi son phấn trôi theo dòng nước mắt.
Đau đớn bấy! Song thân đều cưỡi hạc,
ngọn đèn khuya leo lét ma trơi;
Não nùng thay! Lũ nghĩa tử bơ vơ,
nháo nhác chạy tìm nơi bợ đỡ.
Ôi!
Một kiếp phù du;
Nỗi buồn kim cổ.
Đồng nghiệp họ còn nơi công sở, tuổi
năm nhăm nên phải về vườn;
Tổ tiên đều ở dưới suối vàng, ai cứu
được tai qua nạn khỏi.
Son phấn trả nợ tình nợ nghĩa, danh
tiết này sánh tựa Phó Đoan;
Đem vốn trời cho mà kinh doanh, công
tích ấy, Tư Hồng còn kém .
Đương chức cũng đã oai, về hưu vẫn cứ
oai, lưỡi vốn không xương, bẩy tấc đong
đưa;
Tại chức chưa trưởng phòng, về hưu
còn hậm hực, nay quyết tự phong giám đốc công ty cho oách.
Nước mắt Hoạn Thư lau chẳng ráo, đau
vì hai chữ “ô danh”;
Trăm năm bia miệng ấy vẫn ghi, hận bởi
một câu “vô sỉ”.
Hỡi ôi, thương thay!
Có linh xin hưởng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét